Khám phá 5 nghề biển truyền thống độc đáo ở Phú Yên
Lớn lên bên biển trời Phú Yên, tôi từng thuộc nằm lòng thanh âm của sóng và lời ru rì rào từ những làng chài mỗi sớm mai. Dưới ánh bình minh, trên những bãi cát dài, các mẹ các chị thoăn thoắt gánh cá, còn xa khơi kia những cánh buồm nâu lại căng mình đón gió. Với người con xứ biển như tôi, mỗi nghề biển nơi đây không chỉ là kế sinh nhai, mà còn là niềm tự hào và bản sắc quê hương. Mảnh đất “hoa vàng cỏ xanh” Phú Yên không chỉ đẹp hoang sơ mà còn lưu giữ bao làng nghề biển truyền thống. Hãy cùng tôi khám phá 5 nghề biển đặc trưng nhất của Phú Yên – những nghề đã làm nên thương hiệu đặc sản cho vùng đất hiền hòa này.
 
1. Nghề đánh bắt cá cơm – “vàng trắng” của ngư dân Phú Yên
Những tấm lưới vây màu xanh lướt trên mặt biển Hòn Yến trong mùa săn cá cơm, tạo nên hình dáng mềm mại như dải lụa trên làn nước ngọc bích. Cá cơm được ngư dân Phú Yên xem như “vàng trắng” bởi giá trị kinh tế cao và đầu ra ổn định. Mùa cá cơm diễn ra từ khoảng tháng Giêng đến tháng 3-4 Âm lịch hàng năm. Lúc này, từng đàn cá cơm dày đặc xuất hiện ở vùng biển lộng, cách bờ chừng 2-5 hải lý. Ngư dân thường ra khơi từ chiều tối hôm trước, đánh bắt xuyên đêm và quay về khi trời rạng sáng. Nhờ thời tiết thuận lợi và luồng cá dồi dào, mỗi tàu có thể đánh được bình quân 2-3 tấn cá cơm sau một đêm, thậm chí tàu lớn trúng luồng có thể thu 5-7 tấn một chuyến. Cá vừa cập bến đã có thương lái chờ thu mua tận nơi với giá dao động khoảng 7.000 – 15.000 đồng/kg. Sau khi trừ chi phí dầu và đá lạnh, mỗi tàu vẫn lãi 20-40 triệu đồng mỗi đêm được mùa, tương đương thu nhập 1-2 triệu đồng cho mỗi lao động trên tàu. Với ngư dân vùng biển, không gì vui bằng một đêm “trúng đậm” cá cơm trở về thấy khoang thuyền đầy ắp “lộc biển” và túi tiền rủng rỉnh.Phương pháp đánh bắt: Ngư dân Phú Yên sử dụng đội tàu lưới vây công suất nhỏ (dưới 90 CV) chuyên đánh cá cơm gần bờ. Ban ngày, khi phát hiện luồng cá ở độ sâu khoảng 30-40m, họ nhanh chóng thả lưới vây vòng quanh đàn để “ôm” trọn ổ cá. Ban đêm, bà con lại dùng đèn pha công suất lớn chiếu xuống mặt nước để dụ cá tụ lại thành đám rồi dùng sào xúc cá vào lưới. Cao điểm mùa cá cơm (khoảng tháng 5-8), đặc biệt tại vùng Hòn Yến (xã An Hòa Hải, huyện Tuy An), hàng chục tàu cùng thắp sáng đèn trên biển đánh lưới, tạo nên khung cảnh lung linh sống động. Từ trên cao nhìn xuống, những tấm lưới vây xanh uốn lượn liên tục, lúc thì thành hình tròn, khi như chiếc lá hay trái tim, trông đẹp mắt như một “vũ điệu” trên biển đêm. Mỗi tàu cá cơm thường có khoảng 8-12 thuyền viên. Các ngư dân phối hợp nhịp nhàng từ khâu thả lưới đến thu lưới, đảm bảo cá được kéo lên thuyền vẫn tươi rói để kịp chuyến chợ sáng hôm sau.
Giá trị kinh tế và làng nghề chế biến: Cá cơm Phú Yên thịt thơm ngon, xương mềm nên rất được thị trường ưa chuộng. Nhiều tàu thu mua sẵn sàng chạy theo các đội thuyền để mua cá ngay trên biển, giúp ngư dân tiết kiệm thời gian bảo quản và kéo dài thêm chuyến biển. Cá cơm tươi sau khi bán một phần cho chợ và nhà máy, phần còn lại được người dân chế biến đa dạng: đem hấp chín rồi phơi khô một nắng để xuất khẩu, hoặc ủ muối làm nước mắm và chế biến thành mắm cá cơm – những đặc sản xứ biển. Nhờ đó, giá trị con cá cơm được nâng cao, tạo thêm công ăn việc làm tại các làng nghề ven biển. Hiện nay, riêng huyện Tuy An đã có 7 cơ sở chế biến cá cơm khô xuất khẩu quy mô lớn tập trung ở các xã An Chấn và An Hòa Hải. Chỉ tính từ đầu năm đến giữa năm nay, hơn 300 tấn cá cơm khô Phú Yên đã được xuất sang thị trường Đài Loan và Hàn Quốc, tăng 15% so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó, cá cơm còn là nguyên liệu chính cho những làng nghề nước mắm trứ danh của tỉnh như Mỹ Quang (Tuy An), Long Thủy (TP. Tuy Hòa) hay Gành Đỏ (TX. Sông Cầu). Các làng nước mắm truyền thống này đã tồn tại hàng trăm năm và nay nhiều cơ sở đã đăng ký thương hiệu, đạt chứng nhận OCOP, khẳng định vị thế trên thị trường. Ví dụ, cơ sở nước mắm Hồng Gia Phúc (xã An Phú, TP. Tuy Hòa) mỗi ngày cung ứng khoảng 300 lít nước mắm; từ đầu mùa cá cơm đến nay, cơ sở đã thu mua chừng 70 tấn cá cơm để ủ muối làm mắm, cho ra dòng nước mắm cá cơm hảo hạng được khách hàng khắp nơi ưa chuộng. Năm 2022, nghề làm nước mắm Phú Yên cùng với nghề bánh tráng truyền thống đã được vinh danh là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia – phần thưởng xứng đáng cho nỗ lực gìn giữ tinh hoa làng nghề của bao thế hệ người dân “xứ Nẫu”.

 
2. Nghề câu và chế biến cá ngừ đại dương – Niềm tự hào “đại dương” của Phú Yên
Những con cá ngừ đại dương “khủng” (30-50kg mỗi con) được ngư dân Phú Yên vận chuyển từ tàu câu lên cân tại cảng Đông Tác, TP. Tuy Hòa. Phú Yên được coi là cái nôi khai sinh nghề câu cá ngừ đại dương ở Việt Nam. Vào đầu thập niên 1990, ngư dân Tuy Hòa tình cờ nhặt được những đoạn dây câu trôi dạt của tàu cá Nhật Bản, Đài Loan, trên đó mắc vài con cá ngừ “bò gù” (cá ngừ vây vàng cỡ lớn). Từ manh mối này, họ đã sáng tạo ra loại “vàng câu” (dàn câu dài) hàng chục hải lý với 600-800 lưỡi câu lớn gắn mồi, mở ra phương thức đánh bắt xa bờ mang lại sản lượng cao. Cá ngừ đại dương (ngư dân Phú Yên gọi là cá “bò gù” vì lưng gù, thịt đỏ như thịt bò) ban đầu chủ yếu tiêu thụ trong nước. Đến khoảng đầu những năm 1990, khi các doanh nghiệp nước ngoài vào thu mua xuất khẩu, giá trị loài cá này tăng vọt, kích thích ngư dân ồ ạt đóng tàu vươn khơi. Chỉ sau vài năm, Phú Yên đã phát triển đội tàu gần 1.000 chiếc chuyên câu cá ngừ xa bờ, mỗi năm khai thác khoảng 5.000-6.000 tấn, kim ngạch hàng trăm tỉ đồng. Đến nay, toàn tỉnh có khoảng 950 tàu công suất >90 CV thường xuyên hoạt động tại ngư trường Hoàng Sa, Trường Sa, trở thành địa phương dẫn đầu khu vực Nam Trung Bộ về sản lượng cá ngừ đánh bắt. Nghề biển mới mẻ này đã tạo sinh kế cho gần 8.000 lao động địa phương và đóng góp đáng kể vào xuất khẩu thủy sản. Hiện Việt Nam đã vươn lên thành nước xuất khẩu cá ngừ lớn thứ 3 thế giới, trong đó sản phẩm cá ngừ đại dương của Phú Yên chiếm một tỷ trọng đáng kể.Kỹ thuật truyền thống vs. hiện đại: Đánh bắt cá ngừ đại dương truyền thống sử dụng hình thức câu vàng (longline), thả sâu hàng trăm mét ở vùng biển xa bờ (cách đất liền 185-400km). Ngư trường di chuyển theo mùa – thường cuối năm trước đến tháng 2 Âm lịch đàn cá bơi từ Bắc vào Nam; chính vụ từ khoảng tháng 3-5 Âm lịch, cá tập trung nhiều ở vùng biển Trường Sa, Côn Đảo. Trước đây, mỗi chuyến tàu câu thường kéo dài cả tháng giữa trùng khơi. Ngày nay, một số ngư dân áp dụng thêm kỹ thuật câu đèn (dùng đèn cao áp dẫn dụ cá), giúp rút ngắn thời gian và tăng sản lượng đánh bắt. Tuy nhiên, phương pháp này lại khiến chất lượng cá giảm sút: cá dễ bị thâm đen, thịt nhạt màu, không đỏ tươi bằng câu truyền thống nên giá bán thấp hơn. Chính quyền địa phương khuyến cáo ngư dân kết hợp đa dạng nghề trên biển – vừa câu vàng truyền thống, vừa câu đèn, kết hợp thả lưới các loài cá khác – để đảm bảo hiệu quả kinh tế và tránh phụ thuộc một đối tượng khai thác. Hiện cả 3 tỉnh Phú Yên, Bình Định, Khánh Hòa có khoảng gần 2.500 tàu khai thác cá ngừ đại dương, trong đó gần một nửa là tàu câu vàng hiện đại.
Sản lượng và chế biến: Cá ngừ đại dương Phú Yên sau khi đánh bắt được phân loại, sơ chế ngay trên tàu (xẻ phi-lê, ướp đá) nhằm giữ độ tươi, sau đó vận chuyển bằng xe lạnh về nhà máy. Thị trường xuất khẩu chính của loài cá này là Nhật Bản, Mỹ, EU, dưới dạng thăn phi-lê đông lạnh, đồ hộp hoặc cá ngừ nguyên con đông lạnh. Tại địa phương, cá ngừ đại dương còn được sáng tạo thành nhiều đặc sản ẩm thực hấp dẫn, trở thành “đại sứ du lịch” của Phú Yên. Nổi tiếng nhất phải kể đến món “mắt cá ngừ đại dương” hầm thuốc bắc – món ăn độc đáo có một không hai ở Việt Nam. Gần như toàn bộ mắt cá ngừ sau khi đánh bắt đều được để lại Phú Yên để chế biến món này phục vụ du khách, bởi hiếm nơi nào khác có đủ nguồn cung và bí quyết nấu như ở đây. Ngoài ra, thịt cá ngừ đỏ tươi có thể thái làm sashimi ăn sống kèm mù-tạt; bao tử cá ngừ làm sạch bóp gỏi chua cay; lườn cá ngừ đem nướng muối ớt hoặc nướng mọi thơm lừng... Tất cả đã tạo thành một thực đơn phong phú thu hút thực khách gần xa, giúp quảng bá hình ảnh ẩm thực Phú Yên.
Thách thức: Dù một thời là “mỏ vàng” trên biển, những năm gần đây nghề câu cá ngừ ở Phú Yên gặp không ít khó khăn. Chi phí mỗi chuyến biển tăng cao do giá nhiên liệu, đá lạnh, nhu yếu phẩm đều leo thang – bình quân một tàu phải tốn 60-100 triệu đồng tiền dầu, đá cho chuyến đi Trường Sa kéo dài vài tuần. Trong khi đó, giá cá ngừ có thời điểm rớt xuống dưới 90.000 đ/kg, khiến nhiều chuyến biển thua lỗ nặng nề. Theo thống kê, có giai đoạn hơn 80% tàu câu xa bờ ở Phường 6 (Tuy Hòa) bị lỗ “chỏng gọng” và phải nằm bờ. Nhiều chủ tàu ôm nợ đành bán tháo tàu hoặc tạm nghỉ đi biển. Lớp ngư dân trẻ cũng không mặn mà nối nghiệp cha ông vì thu nhập bấp bênh so với làm việc trên bờ. Trước thực trạng đó, tỉnh Phú Yên đã phối hợp cùng các chuyên gia Nhật Bản thử nghiệm mô hình câu cá ngừ công nghệ cao (trang bị thiết bị định vị đàn cá, hầm bảo quản hiện đại) nhằm nâng cao chất lượng cá đánh bắt được và tăng giá bán. Song song, địa phương tổ chức các lễ hội vinh danh cá ngừ và chương trình quảng bá thương hiệu “Phú Yên – thủ phủ cá ngừ đại dương” để đẩy mạnh tiêu thụ trong và ngoài nước. Nhờ nỗ lực không ngừng, đến đầu năm 2025, tình hình đã khả quan hơn: ngư dân Phú Yên liên tiếp trúng mùa cá ngừ xuyên Tết, 72 tàu cập cảng chỉ trong một tuần đầu năm với sản lượng gần 50 tấn, giá bán ổn định khoảng 100.000 đ/kg loại 1 nên nhiều tàu có lãi khá. Nghề câu cá ngừ đang dần hồi sinh, tiếp tục là niềm tự hào của ngư dân “xứ Nẫu” khi vươn khơi bám biển.

 
3. Nghề nuôi tôm hùm và thủy sản lồng bè – “Thủ phủ tôm hùm” Sông Cầu
Người nuôi tôm ở xã Xuân Thịnh (TX. Sông Cầu) thu hoạch tôm hùm bông từ lồng đưa lên bán cho thương lái. Phú Yên được thiên nhiên ưu đãi nhiều đầm, vịnh kín gió rất thích hợp cho nuôi trồng thủy sản lồng bè. Hiện tỉnh này là địa phương nuôi tôm hùm lớn nhất cả nước, chiếm hơn 50% sản lượng quốc gia. Năm 2024, toàn tỉnh Phú Yên có gần 177.000 lồng nuôi tôm hùm, sản lượng thu hoạch khoảng 2.260 tấn, giá trị tương đương 1.800 tỉ đồng, dẫn đầu cả nước về cả số lượng lồng và sản lượng. Vùng nuôi trọng điểm là thị xã Sông Cầu ở phía bắc Phú Yên – nơi từ lâu được mệnh danh “thủ phủ tôm hùm”. Riêng TX. Sông Cầu hiện có khoảng 129.320 lồng tôm hùm, sản lượng hơn 2.190 tấn (năm 2024), với khoảng 4.000 hộ dân (tương ứng 10.000 lao động) tham gia nuôi tôm hùm lồng bè. Xã Xuân Phương (TX. Sông Cầu) là “thủ phủ trong thủ phủ” khi có đến 1.259 hộ thả nuôi 70.766 lồng tôm hùm – nhiều nhất tỉnh. Năm vừa qua, Xuân Phương xuất bán 28.650 lồng tôm hùm thịt, sản lượng 1.115 tấn (giá bán bình quân 750.000-850.000 đ/kg), mang về doanh thu khoảng 920 tỉ đồng. Thu nhập “khủng” từ tôm hùm đã nhanh chóng làm đổi thay cuộc sống người dân nơi đây; nhiều làng quê ven vịnh Xuân Đài, Cù Mông giờ san sát nhà cao tầng, các hộ nuôi tôm trở nên khá giả, đóng góp lớn vào nguồn thu ngân sách địa phương.
Phương thức nuôi: Tôm hùm Phú Yên chủ yếu nuôi bằng hình thức lồng bè thả biển. Lồng làm khung gỗ hoặc nhựa, kích thước phổ biến khoảng 2,5m x 2,5m x 2m, được kết thành từng bè nổi neo cố định trên mặt nước. Mỗi lồng thả nuôi khoảng 20-30 con tôm giống (loại 0,3-0,5kg/con) để đảm bảo không gian cho tôm phát triển. Thời gian nuôi kéo dài 18-20 tháng, đến khi tôm đạt trọng lượng thương phẩm khoảng 0,8-1,2kg/con thì xuất bán. Tôm hùm là loài ăn tạp, chúng được cho ăn thức ăn tươi (thường là cá tạp, sò, hàu) mỗi ngày. Người nuôi phải lặn kiểm tra lồng thường xuyên, vệ sinh lồng bè và theo dõi sức khỏe tôm cho đến ngày thu hoạch. Với giá tôm hùm thương phẩm hiện dao động 700.000-850.000 đ/kg (loại tôm hùm bông giá cao hơn, tôm hùm xanh giá thấp hơn), mỗi lứa nuôi thành công, bà con có thể thu lời hàng trăm triệu đồng. Tôm hùm Phú Yên nổi tiếng vỏ chắc, thịt ngọt nên được thương lái các nơi tìm mua tận bè. Ngành nông nghiệp tỉnh đang khuyến khích các hộ nuôi áp dụng công nghệ cao – lắp hệ thống sục khí, cho ăn tự động, dùng chế phẩm sinh học phòng bệnh – và đăng ký truy xuất nguồn gốc để hướng tới xuất khẩu chính ngạch, nâng tầm thương hiệu “tôm hùm xứ Nẫu”.
Thách thức môi trường: Hiệu quả kinh tế “siêu lợi nhuận” luôn đi kèm rủi ro. Ở Phú Yên, người nuôi tôm hùm phải thường xuyên đối mặt các vấn đề thiên tai, dịch bệnh và ô nhiễm môi trường vùng nuôi. Mùa mưa bão, những vịnh kín gió như Xuân Đài, Cù Mông vẫn có thể hứng dòng lũ nước ngọt từ thượng nguồn đổ về làm tôm “sốc nước” chết hàng loạt. Hay chỉ một đợt áp thấp gây mưa kéo dài, nguồn nước thiếu oxy, hàng ngàn lồng tôm có thể bị thiệt hại trong vài ngày. Bên cạnh đó, mật độ lồng bè dày đặc cộng với việc cho tôm ăn cá tạp thường xuyên nhưng chưa quản lý tốt lượng thức ăn thừa đã dẫn đến hiện tượng tôm hùm bệnh chết hàng loạt ở Sông Cầu những năm trước. Điển hình như bệnh “sữa” trên tôm hùm – tôm yếu nổi đầu, cơ thể trắng đục và chết dần – từng bùng phát khiến gần 600.000 con tôm hùm nuôi ở Phú Yên bị chết trong năm 2017. Nguyên nhân chính được xác định là mật độ lồng quá dày làm tù đọng nước và dư thừa chất hữu cơ do thức ăn thừa. Nguồn nước nuôi khi đó bị ô nhiễm nặng, các chỉ số NH₃, H₂S… đều vượt ngưỡng cho phép, oxy hòa tan lại xuống thấp, tạo điều kiện cho mầm bệnh lây lan. Tôm nuôi sức khỏe yếu, nhiều con không lột xác được do vỏ bị sinh vật ký sinh bám đầy, dẫn đến tỷ lệ chết có thời điểm lên tới 20-30% ở một số lồng tôm hùm bông. Vì vậy, ngành thủy sản tỉnh đã tăng cường tuyên truyền kỹ thuật cho bà con: hạn chế mật độ thả, quản lý chặt chẽ lượng thức ăn, thường xuyên vớt bỏ thức ăn thừa để tránh thiếu oxy cục bộ, đồng thời di dời bớt lồng nuôi sang vùng nước sâu thông thoáng hơn. Đặc biệt, con giống tôm hùm đến nay vẫn hoàn toàn phụ thuộc tự nhiên (ngư dân đánh bắt tôm hùm con ngoài biển bằng lưới mành, lồng bẫy, lặn…), dẫn đến nguồn giống bấp bênh cả về số lượng lẫn chất lượng. Vào đầu vụ, nhiều hộ thả giống quá nhỏ, sức khỏe yếu nên tôm chết hàng loạt trong tháng nuôi đầu, gây rủi ro rất lớn. Mặt khác, đầu ra tiêu thụ tôm hùm cũng chủ yếu dựa vào xuất khẩu qua đường tiểu ngạch sang Trung Quốc. Chỉ cần thị trường này “đóng cửa” hoặc ép giá, thương lái ngừng thu mua, lập tức giá tôm rớt thê thảm và người nuôi lao đao vì không có thị trường thay thế. Cuối năm 2021 từng xảy ra cảnh “giải cứu tôm hùm” khi Trung Quốc ngừng nhập, tôm loại 1 giá rớt từ 800 nghìn xuống chỉ còn ~500 nghìn đồng/kg. Những bất cập này đặt ra yêu cầu phải thay đổi phương thức sản xuất nếu muốn nghề nuôi tôm hùm phát triển bền vững.
Định hướng bền vững: Trước sức ép môi trường và thị trường, tỉnh Phú Yên đã xúc tiến nhiều giải pháp mạnh mẽ. Các vùng nuôi tôm hùm hiện nay đang được rà soát, quy hoạch lại chi tiết để giảm mật độ lồng phù hợp sức tải môi trường. Tháng 6/2025, một nhà đầu tư Hàn Quốc (Tập đoàn Sapien) đã đề xuất dự án thí điểm vùng nuôi tôm hùm công nghệ cao rộng 500ha mặt nước tại Phú Yên, dự kiến triển khai ngay trong năm 2025. Dự án này hướng đến xây dựng mô hình nuôi biển hiện đại, đáp ứng các tiêu chuẩn cao (truy xuất nguồn gốc, an toàn thực phẩm, tiêu chuẩn ESG), đồng thời tạo chuỗi giá trị khép kín từ con giống – nuôi thương phẩm – chế biến – xuất khẩu chính ngạch. Lãnh đạo tỉnh đánh giá cao đề xuất vì phù hợp định hướng phát triển nuôi trồng thủy sản bền vững của địa phương. Tỉnh đã giao các sở ngành hỗ trợ nhà đầu tư hoàn thiện thủ tục sớm triển khai dự án. Kỳ vọng trong tương lai, mô hình nuôi tôm hùm công nghệ cao này sẽ giải quyết được những hạn chế cố hữu về chuỗi cung ứng đầu vào – đầu ra, bảo vệ môi trường sinh thái vùng nuôi và đưa thương hiệu “tôm hùm Phú Yên” vươn xa hơn trên thị trường quốc tế.

 
4. Khai thác và nuôi trồng thủy sản ở đầm, phá: Sò huyết, hàu, ốc hương
Phú Yên không chỉ có biển khơi mà còn nhiều đầm phá lợ giàu tài nguyên thủy sản. Tiêu biểu là đầm Ô Loan (huyện Tuy An) với đặc sản sò huyết trứ danh, hay đầm Cù Mông (TX. Sông Cầu) – vùng nuôi ốc hương nổi tiếng. Những năm qua, người dân ven đầm đã biết kết hợp khai thác tự nhiên với nuôi trồng các loài nhuyễn thể, nhờ đó tạo thêm sinh kế và góp phần bảo vệ nguồn lợi. Tuy nhiên, việc khai thác thiếu bền vững và nuôi trồng tự phát cũng gây ra nhiều hệ lụy môi trường, đòi hỏi địa phương có giải pháp quản lý hài hòa.
Sò huyết đầm Ô Loan – đặc sản “danh bất hư truyền”: Đầm Ô Loan diện tích khoảng 1.570ha vốn được xem là “vựa sò huyết” độc đáo của Phú Yên. Sò huyết Ô Loan nổi tiếng nhờ thịt dày, huyết nhiều, vị thơm ngọt rất đặc trưng, được xếp hàng đầu trong các loại sò huyết về chất lượng. Vài chục năm trước, nghề mò sò huyết đã nuôi sống hàng trăm hộ dân quanh đầm ở các xã An Cư, An Hòa, An Hiệp, An Hải, An Ninh Đông. Chỉ cần lội nước vài giờ mỗi ngày, người dân có thể bắt được hàng chục ký sò – món quà hào phóng từ thiên nhiên. Tuy nhiên, khoảng hơn 10 năm trở lại đây, sản lượng sò huyết tự nhiên ở Ô Loan suy giảm nghiêm trọng. Nguyên nhân chính là tình trạng khai thác quá mức và ô nhiễm môi trường: một thời gian dài, nhiều người dùng cả cào sắt và đăng lưới mắt nhỏ tận diệt sò con, trong khi các ao nuôi tôm tự phát trên đầm thải ra hóa chất khiến hệ sinh thái mất cân bằng. Có giai đoạn (2008-2009) gần như không tìm thấy con sò huyết nào trong đầm. Đến nay, sò huyết chính hiệu Ô Loan hiếm đến mức nhiều nhà hàng phải nhập sò nơi khác về bán kèm cho du khách. Giá sò huyết Ô Loan loại lớn vọt lên hơn 100.000 đ/kg – đắt gấp đôi sò thường – mà có tiền cũng khó mua được hàng “xịn”. Trước nguy cơ thất truyền đặc sản quý, tỉnh Phú Yên đã triển khai dự án phục hồi sò huyết Ô Loan theo hướng bền vững. Trong hai năm 2014-2015, Ban quản lý dự án Nguồn lợi ven biển bền vững (CRSD) đã thả hơn 1,3 tấn sò huyết giống (loại 1.200-1.300 con/kg) xuống đầm để tái tạo nguồn lợi. Đồng thời, mô hình nuôi sò huyết cộng đồng được thí điểm với 12 hộ dân thả nuôi trên diện tích 6ha đầm. Kết quả rất khả quan: sau ~6-7 tháng, sò giống sinh trưởng tốt, đạt cỡ 60-80 con/kg, tỷ lệ sống cao, mỗi hộ thu hoạch hơn 1 tấn sò, lãi hàng chục triệu đồng. Ông Lê Quang Hiệp – Giám đốc Trung tâm Giống và Kỹ thuật thủy sản Phú Yên – cho biết trong 12 hộ tham gia năm 2015 thì có 10 hộ có lãi 20-50 triệu, chỉ 2 hộ do sò chết nhiều nên hòa vốn. Sau thành công ban đầu, huyện Tuy An đã khảo sát và quy hoạch vùng nuôi sò huyết rộng 100ha tại đầm Ô Loan (chủ yếu ở khu vực sò tự nhiên trước đây). Mỗi hộ dân dự kiến được giao 0,5-1ha mặt nước để nuôi cộng đồng, có cắm mốc tọa độ ranh giới rõ ràng. Song song đó, tỉnh cũng siết chặt việc cấm khai thác bừa bãi và khôi phục hệ sinh thái đầm. Năm 2024-2025, dự án trồng mới 83ha rừng ngập mặn (các loại cây bần, đước, dừa nước) đã được triển khai quanh đầm Ô Loan. Những cánh rừng cây nước lợ này sẽ giúp cải thiện chất lượng nước, tạo nơi cư trú cho con non và chống xói lở bờ đầm. Người dân địa phương kỳ vọng vài năm tới, nhờ rừng ngập mặn và ý thức bảo vệ nguồn lợi, các loài thủy sản quý như sò huyết, lịch huyết, cá mai, cua phao… sẽ dần quay trở lại, cho đầm Ô Loan “no” tôm cá như thuở ban đầu.
Nuôi hàu và vẹm trên đầm – lợi ích và hệ lụy: Ngoài sò huyết, đầm Ô Loan còn có nguồn hàu, vẹm tự nhiên bám trên các gành đá, chân cầu. Từ xưa người dân đã lặn bắt hàu vào mùa khô, vừa để cải thiện bữa ăn vừa bán kiếm thêm thu nhập. Khoảng vài năm gần đây, một số hộ dân xã An Hòa Hải và An Hiệp nảy ra ý tưởng nuôi hàu Thái Bình Dương (hàu sữa) ngay trên đầm. Ban đầu chỉ 2-3 hộ đóng cọc tre, treo giàn để thử nghiệm nuôi hàu lấy thịt. Thấy hàu dễ nuôi, lớn nhanh và tiêu thụ được, phong trào nuôi hàu lan rộng tự phát. Hiện toàn xã An Hòa Hải có khoảng 113 hộ nuôi hàu trên đầm, với hàng trăm bè tre và phao nổi giăng kín một góc đầm như “bãi chông” trên mặt nước. Trớ trêu là hàu nuôi ở Ô Loan chủ yếu được thu hoạch để làm thức ăn cho tôm hùm ở Sông Cầu, chứ không phải để làm đặc sản cho người. Người dân đóng cọc tre và giăng lưới mùng dưới đáy để hàu, vẹm bám vào, đến kỳ thu hoạch thì cạy vỏ làm mồi nuôi tôm. Việc nuôi hàu tự phát đã kéo theo nhiều hệ lụy: Các cọc tre và lưới dày đặc cản trở luồng ghe thuyền qua lại, cản trở dòng chảy khiến bùn non tích tụ gây nước tù đọng và ô nhiễm, gió thổi vào còn bốc mùi tanh hôi khó chịu. Các loại lờ đăng cấm (lưới bát quái “12 cửa ngục”) cũng bị một số người lén thả lại để tận diệt cá tôm nhỏ, càng làm nguồn thủy sản cạn kiệt. Trước thực trạng đó, chính quyền huyện Tuy An đã nhiều lần ra quân tháo dỡ các bè hàu, vẹm trái phép và vận động người nuôi tháo dỡ giàn hàu sau mỗi vụ để trả lại mặt nước thông thoáng. Tuy nhiên, do nuôi hàu cho thu nhập nhanh nên vẫn còn tình trạng lén lút tái lấn chiếm. Về lâu dài, tỉnh định hướng quy hoạch khu vực riêng cho nuôi nhuyễn thể trên đầm (theo hình thức quản lý cộng đồng), đồng thời bổ sung trồng cỏ biển, rong biển bản địa để giúp lọc nước tự nhiên, cải thiện môi trường. Mục tiêu là vừa khai thác được nguồn lợi (hàu, vẹm làm thức ăn tôm hùm hoặc làm thực phẩm), vừa bảo tồn danh thắng quốc gia đầm Ô Loan khỏi nguy cơ ô nhiễm nặng.
Ốc hương Cù Mông – tiềm năng lớn, rủi ro cao: Khác với Ô Loan, khu vực đầm Cù Mông (giáp ranh Phú Yên – Bình Định) lại phát triển nghề nuôi ốc hương thương phẩm. Ốc hương là loại ốc biển có vỏ hoa đẹp, thịt thơm giòn, giá trị kinh tế cao (được mệnh danh “nữ hoàng ốc”). Người dân xã Xuân Cảnh (TX. Sông Cầu) tận dụng bãi triều ven đầm để đào ao thả nuôi ốc hương. Mỗi ao/đìa thường rộng vài trăm đến vài nghìn mét vuông, đáy cát sạch, có bơm nước biển ra vào. Toàn TX. Sông Cầu hiện có khoảng 102ha diện tích nuôi ốc hương, tập trung ở các phường Xuân Đài, Xuân Thành và xã Xuân Cảnh. Ốc hương nuôi khoảng 5-6 tháng sẽ đạt kích cỡ 120-150 con/kg (dân trong nghề gọi là “size 15” tức 150 con mỗi ký). Với giá bán hiện nay từ 250.000-350.000 đ/kg tùy loại, mỗi ao ốc hương nếu thuận lợi có thể thu hàng tấn ốc, cho lợi nhuận hàng trăm triệu đồng. Tuy nhiên, rủi ro dịch bệnh ở ốc hương rất lớn, chỉ một biến động nhỏ môi trường cũng có thể làm ốc chết sạch đìa. Đầu năm 2018, người nuôi ốc hương ở Xuân Cảnh đã lâm vào cảnh “trắng tay” khi ốc đồng loạt nhiễm bệnh lạ. Dấu hiệu bệnh lý là ốc trồi lên ăn mồi rồi không chui xuống cát được, vòi thò ra sưng to và chết hàng loạt. Ông Trần Văn Minh (xã Xuân Cảnh) kể: gia đình ông thả ốc trên đìa 3 sào (~1.500m²) với 10 vạn con giống, nuôi đến tháng thứ 3 thì bắt đầu xuất hiện ốc bệnh chết dần, cuối cùng mất trắng, thiệt hại khoảng 300 triệu đồng chi phí đầu tư. Một hộ khác thả 8 vạn con giống trên diện tích 2 sào, ốc chưa kịp lớn đã chết sạch chỉ sau chưa đầy 1 tháng nuôi, ước tính mất mát hơn 70 triệu tiền giống. Theo kinh nghiệm dân gian, ốc hương “yếu” hơn tôm hùm: nếu nhiễm bệnh có thể chết hàng loạt không cứu vãn, còn tôm hùm có bệnh thường chết rải rác nên vẫn vớt vát bán được. Do đó, nuôi ốc hương đòi hỏi kỹ thuật cao và chăm sóc tỉ mỉ. Cơ quan chuyên môn khuyến cáo người nuôi phải tạo ôxy thường xuyên trong ao – lắp máy quạt nước tạo sóng trên mặt và máy sục khí dưới đáy đìa. Đồng thời quản lý chặt lượng thức ăn, không nuôi mật độ quá dày, và định kỳ siphon đáy hút sạch chất bẩn để tránh thiếu oxy cục bộ. Thống kê cho thấy đợt dịch bệnh năm 2018 đã ảnh hưởng hơn 15ha ốc hương (33 hộ) ở Xuân Cảnh, làm tỷ lệ hao hụt ốc giống lên tới 80%. Nguyên nhân chính do môi trường ao ô nhiễm – kết quả quan trắc nước cho thấy hàm lượng khí độc NH₃, H₂S vượt ngưỡng 3-5 lần, còn oxy hòa tan (DO) thấp chỉ bằng nửa mức cho phép. Trước thực trạng này, TX. Sông Cầu định hướng giảm diện tích nuôi ốc tự phát, chuyển sang hình thức tổ hợp tác hoặc HTX nuôi ốc để dễ hướng dẫn kỹ thuật và quản lý lịch thời vụ. Có như vậy mới hạn chế được tình trạng “mạnh ai nấy làm” dẫn đến ô nhiễm, dịch bệnh lặp lại. Nghề nuôi ốc hương tuy rủi ro cao nhưng nếu làm bài bản, tuân thủ kỹ thuật thì vẫn là hướng đi tiềm năng giúp đa dạng sinh kế vùng đầm phá Phú Yên.

 
5. Làng nghề truyền thống: Nước mắm, cá khô, bánh tráng – tinh hoa xứ biển Phú Yên
Phú Yên không chỉ có đặc sản tươi sống mà còn nổi tiếng với những làng nghề chế biến hải sản lâu đời. Trải dọc ven biển tỉnh là hàng chục làng nghề làm nước mắm cá cơm, phơi cá khô hay tráng bánh tráng (bánh đa) – mỗi làng nghề mang một nét riêng góp phần làm phong phú văn hóa ẩm thực địa phương. Năm 2022, hai nghề tiêu biểu là nước mắm truyền thống và bánh tráng Phú Yên đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia. Đây vừa là niềm tự hào, vừa mở ra cơ hội mới để bảo tồn và phát triển các sản phẩm đặc trưng này.
Làng nghề nước mắm – “hương vị xứ Nẫu” trăm năm: Từ thời phong kiến, nước mắm Phú Yên (đặc biệt nước mắm Mỹ Quang, Gành Đỏ) đã nức tiếng gần xa, từng được chọn làm cống vật tiến vua. Sở dĩ nước mắm nơi đây nổi tiếng vì được làm hoàn toàn thủ công từ cá cơm tươi và muối hạt Tuyết Diêm – thứ muối hạt to, trắng tinh, vị mặn đậm đà chỉ có ở vùng Sông Cầu. Các làng mắm như Mỹ Quang (An Chấn), Gành Đỏ (Xuân Đài), Long Thủy (Tuy Hòa)… đều đã trải qua hơn trăm năm tồn tại. Mỗi làng một bí quyết, nhưng điểm chung là sử dụng cá cơm than hoặc cơm sọc tiêu thật tươi, trộn với muối theo tỷ lệ 3 cá : 1 muối. Hỗn hợp cá muối được cho vào thùng gỗ hoặc chum sành lớn, bên trên gài vỉ tre và dùng đá nặng nén chặt. Sau đó người ta phơi nắng và ủ ít nhất 12-15 tháng (có nơi 18-24 tháng) để cá phân hủy hoàn toàn, cho ra nước mắm cốt tinh khiết. Phương pháp cổ truyền “gài nén” hàng trăm năm qua không hề thay đổi – không thêm phụ gia hay bất cứ chất gì khác ngoài cá và muối. Nhờ đó, giọt nước mắm nhĩ Phú Yên luôn có màu cánh gián trong vắt bắt mắt, dậy mùi thơm dịu, vị mặn mòi đậm đà và độ đạm tự nhiên rất cao (25-30 độ đạm). Các làng nghề hiện nay đã đăng ký sử dụng nhãn hiệu tập thể “nước mắm Phú Yên” cho sản phẩm của mình. Toàn tỉnh có trên 300 hộ gia đình và cơ sở làm nước mắm, cung cấp hàng trăm ngàn lít nước mắm ra thị trường mỗi năm. Nhiều thương hiệu nước mắm truyền thống của Phú Yên đã có chỗ đứng vững chắc, xuất hiện trong các siêu thị lớn và thậm chí xuất khẩu ra nước ngoài. Có thể kể đến nước mắm Mỹ Quang (huyện Tuy An), nước mắm Ông Già – Bà Mười (TP. Tuy Hòa), nước mắm Tân Lập (TX. Sông Cầu)… – những sản phẩm OCOP 4 sao, 5 sao được người tiêu dùng tin cậy. Người dân làm mắm nơi đây quan niệm: giọt nước mắm ngon chính là kết tinh của tình yêu biển cả và công sức vun đắp qua bao đời. Không ngoa khi nói rằng, chén nước mắm Phú Yên đã trở thành “quốc hồn quốc túy” không thể thiếu trong bữa cơm và văn hóa ẩm thực xứ Nẫu.
Cá khô một nắng – phong vị nắng gió miền Trung: Từ xưa ngư dân Phú Yên đã biết phơi cá khô để dự trữ và làm hàng hóa buôn bán. Đến nay, nhiều làng ven biển vẫn giữ nghề hấp cá và phơi cá một nắng truyền thống. Các loại cá cơm, cá nục, cá chỉ vàng, mực ống… sau khi đánh bắt về, ngoài phần bán tươi, phần còn lại sẽ được chế biến thành cá khô để bảo quản lâu hơn. Cá thường được hấp chín rồi mang ra sân phơi khoảng một ngày nắng to cho se khô bề mặt. Nhờ khí hậu nắng nhiều, gió biển lộng, cá khô Phú Yên nổi tiếng giữ được màu sắc đẹp và vị ngọt tự nhiên. Đặc biệt, cá cơm khô Phú Yên hiện rất được thị trường ưa chuộng: mỗi năm các cơ sở chế biến xuất khẩu hàng trăm tấn cá cơm khô sang Đài Loan, Hàn Quốc. Các làng Phước Đồng (TP. Tuy Hòa), Xuân Bình (TX. Sông Cầu)… nhà nhà làm cá khô, vào mùa ta sẽ thấy những sân phơi rộng phủ kín lưới phơi cá cơm trắng bạc hay cá chỉ vàng vàng ươm trông rất thích mắt. Một đặc sản khác là mực một nắng – người Phú Yên hài hước gọi là “bò một nắng”. Mực lá hoặc mực ống tươi vừa đánh lên còn phúng phính được xẻ ra phơi đúng một ngày nắng giòn rồi đóng gói hút chân không. Con mực một nắng nhìn bên ngoài ráo nhưng bên trong thịt vẫn dẻo ngọt, khi nướng lên tỏa mùi thơm phức, xé chấm tương ớt nhâm nhi khó ai cưỡng lại. Du khách đến Phú Yên thường mua mực một nắng về làm quà, cùng với các loại cá khô khác như cá ngựa khô, hải sâm khô, sá sùng khô… Những sản vật này ngoài giá trị dinh dưỡng còn được dùng làm thuốc, thể hiện kho tàng kinh nghiệm sử dụng hải sản phong phú của ngư dân vùng biển.
Bánh tráng Phú Yên – giòn thơm hương gạo mới: Nhắc đến đặc sản Phú Yên không thể thiếu bánh tráng Hòa Đa, một loại bánh đa nướng trứ danh đất miền Trung. Làng nghề bánh tráng Hòa Đa (xã An Mỹ, Tuy An) hình thành từ cuối thế kỷ 19 và tồn tại liên tục đến. Thuở sơ khai, bánh tráng Hòa Đa được làm bằng bột mì (bột sắn) như một dạng lương khô để dành qua mùa mưa bão. Về sau, người làng chuyển sang dùng bột gạo để bánh thơm ngon hơn. Bánh tráng Phú Yên nổi tiếng mỏng, dẻo, khi nhúng nước không bị gãy nhưng nướng lên lại giòn tan, thơm phức mùi gạo mới. Để có được chất lượng đó, người làm bánh rất kỳ công: gạo làm bánh phải là loại gạo xẹt (ĐV108 hoặc BD258) còn nhiều cám, xay thành bột nước mịn, không pha tạp chất. Bột xay tới đâu đem tráng bánh tới đó, không để bột qua đêm kẻo bánh bị chua. Bánh mới tráng xong được phơi hai nắng: đầu tiên dựng phên bánh trong bóng râm cho se mặt (tránh nứt vỡ), sau đó mới đem phơi ngoài nắng to đến khi bánh khô hẳn. Nhờ vậy bánh thành phẩm rất phẳng, đẹp, không bị rỗ mặt. Bánh tráng Phú Yên có nhiều biến thể hấp dẫn: bánh tráng mè (rắc mè đen), bánh tráng nước dừa (trộn nước cốt dừa vào bột cho béo thơm), bánh tráng tôm (phết tôm khô giã nhuyễn lên mặt bánh)… Từng chiếc bánh sau khi nướng trên than hồng sẽ phồng rộp, giòn xốp, thơm ngậy và có thể bẻ ăn như snack hoặc nhúng nước cuốn thịt cá rau sống đều ngon. Hình ảnh những phên tre phơi bánh tráng trắng tinh dọc các triền đê, bãi cỏ đã trở thành biểu tượng bình dị của làng quê Phú Yên. Hiện toàn tỉnh có hàng trăm hộ làm bánh tráng rải khắp các huyện, tập trung đông ở làng Hòa Đa (Tuy An) và Đông Bình (Phú Hòa). Nghề làm bánh tráng đã góp phần tạo việc làm cho nhiều lao động nông nhàn, nhất là vào vụ sau thu hoạch lúa (khoảng tháng Chạp đến tháng 7 Âm lịch năm sau). Năm 2022, cùng với nước mắm, nghề làm bánh tráng Phú Yên được vinh danh di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Từ đây, chiếc bánh tráng quê nhà không chỉ là món ăn dân dã nữa mà đã vươn tầm “đại sứ văn hóa”, mang hương vị đồng quê Phú Yên đến với du khách gần xa.
Đặc sản độc đáo khác: Ngoài ba nhóm nghề chính kể trên, Phú Yên còn nhiều sản vật địa phương gắn liền với biển cần nhắc đến. Muối Tuyết Diêm (TX. Sông Cầu) hạt to, trắng mịn, vị mặn đằm – chính là “linh hồn” tạo nên giọt nước mắm Gành Đỏ thượng hạng. Rong câu và rong mơ tự nhiên ở vùng biển Tuy An được người dân thu hoạch, phơi khô làm cốm rong biển (rong xay trộn gia vị rồi sấy giòn) và mắm rong (trộn rong khô với tỏi ớt, nước mắm) – món ăn chơi vừa lạ miệng vừa bổ dưỡng. Các loại mắm cá nhà làm như mắm cá cơm, mắm cá thu, mắm mực… cũng góp phần làm phong phú thêm bữa cơm dân dã của người Phú Yên. Dù lặng lẽ phía sau những chuyến biển, chính các nghề chế biến truyền thống này đã và đang “nâng tầm” giá trị nguồn hải sản địa phương. Nhờ có bàn tay người thợ, những mẻ cá tôm tươi rói không chỉ bán tươi mà còn hóa thành những đặc sản mang hương vị đậm đà, có thể đóng chai, đóng gói mang đi muôn nơi. Đó là cách người dân miền biển Phú Yên gìn giữ tài nguyên và quảng bá văn hóa ẩm thực quê hương một cách bền vững và đầy sáng tạo.

Phú Yên hiện lên với bao sắc thái qua từng nghề biển – khi sôi động rộn ràng, lúc bền bỉ lặng thầm. Tất cả những làng nghề, từ khơi xa đến đầm phá, từ con cá cơm nhỏ bé đến tôm hùm, cá ngừ to lớn, đã góp phần làm nên hương vị và sức sống cho mảnh đất ven biển hiền hòa này. Nếu có dịp ghé thăm, bạn đừng quên trải nghiệm cuộc sống làng chài và thưởng thức những đặc sản trứ danh của “xứ Nẫu” – để hiểu và thêm yêu con người, văn hóa nơi vùng đất hoa vàng cỏ xanh.
                                    